MỘT NGƯỜI MÀ BẠN PHẢI ĐỐI DIỆN

Article Index

Dưới con mắt trần gian, Người không có gì đặc biệt. Người không đẹp trai, không giàu có hay nổi tiếng, Người cũng không tìm cách "chơi nổi" dù có hoàn cảnh thuận tiện. Nếu sinh ra và trưởng dưỡng trong dòng dõi vua chúa, có danh trong xã hội hay trí thức vượt bực là những dấu hiệu của sự vĩ đại thì người không đạt những tiêu chuẩn đó. Người chỉ là một nhân vật vô danh. Khi người sanh ra không có tiếng kèn báo hiệu, không có gối lụa cho người gối đầu; không có trường đại học nào khắc tên người vào bảng danh dự; không một sử gia nào xem cuộc đời người là đáng để ghi lại lưu truyền hậu thế.

Người không phải là một thiên tài về văn chương. Người không hề viết một quyển sách hay giới thiệu một lối sáng tác mới, hoặc đề ra một triết thuyết. Bạn hữu của Người từng khó chịu vì thấy trong Người không có một chút cao vọng nào cả. Thế mà đối với kẻ thù, Người là một nhân vật bất khuất vì họ không thể nào đánh đổ niềm tự tin kiên cường của Người. Vài năm trước đây, một tác giả vô danh đã viết về Người như sau :

"Đây là một chàng thanh niên được sinh ra tại một ngôi làng hẻo lánh, con trai của một người đàn bà nhà quê. Người làm việc trong tiệm mộc đến tuổi ba mươi, và trong ba năm kế đó Người là một nhà truyền giảng lưu động. Người không hề viết một quyển sách. Không hề giử một chức vụ. Người không làm chủ một căn nhà. Không hề lập gia đình. Không theo học một trường cao đẳng. Người chưa hề đặt chân đến một thành phố lớn. Chưa hề du hành khỏi nơi sinh trưởng hai trăm dặm. Người cũng không thực hiện một điều nào mà người đời cho là cao cả. Người không có bằng cấp, chứng thư, thành tích nào ngoài chính cuộc đời mình.

Khi người còn trẻ, làn sóng dư luận chống lại Người. Bạn hữu xa lánh. Người bị bắt nộp cho kẻ thù. Người bị bắt nộp cho kẻ thù. Người đã trải qua sự chế diểu của một phiên tòa. Người bị đóng đinh trên cây thập tự giửa hai tên cướp. Khi Người hấp hối, những tên lính đóng đinh Người đã bốc thăm để dành món tài sản duy nhất của Người trên Trần thế là chiếc áo khoác dài. Lúc tắt hơi, Người được chôn trong một phần mộ mượn do sự thương xót của một người bạn.

Mười chín thế kỷ trôi qua, Người vẫn là hình ảnh trung tâm của nhân loại và là lảnh tụ của trào lưu tiến bộ. Tôi không quá đáng khi nói rằng tất cả những đạo binh đã từng ra trận, tất cả hải quân đã được thành lập, tất cả những quốc hội đã từng nhóm hợp, tất cả vua chúa từng trị vì, gom chung lại với nhau cũng không ảnh hưởng trên cuộc sống của nhân loại như cuộc đời Cô Độc đó."

Không, Người không hề giàu có hay nổi tiếng, nhưng vua chúa và tổng thống quỳ gối dưới chân người. Người không phải là Shakespeare, nhưng Shakespeare nhận Người là cao cả hơn mình. Không có những phát minh khoa học hay triết lý lay chuyển thế giới nào do công Người mà ra, nhưng biết bao nhiêu khoa học gia, những nhà bác học, những triết gia đều công nhận Người là nguồn gốc của mọi sự khôn ngoan. Người bị mang tiếng xấu là con rơi, thế mà nhiều nhà quí tộc và dòng dỏi trâm anh đều muốn đứng chung với Người.

Người là ai? Người đến từ đâu ? Bí quyết ảnh hưởng của Người là gì ? Điều nào khiến Người có sức thu hút quần chúng như thế?

Một cụ già sống 700 năm trước Người đã viết :
"Người chẳng có hình dung, chẳng có sự đẹp đẽ; khi chúng ta thấy Người, không có sự tốt đẹp cho chúng ta ưa thích được. Người đã bị người ta khinh dễ và chán bỏ, từng trải sự buồn bực."(Êsai 53:2-3)

Nhìn lại ba năm bằng hữu, bạn thân nhất của Người viết rằng :
"Ngôi Lời ở thế gian và thế gian đã làm nên bởi Ngài, nhưng thế gian chẳng từng nhìn biết Ngài. Ngài đã đến tronh xứ mình nhưng dân mình chẳng hề nhận lấy."(Giăng 1 : 10 - 11)

Chín tháng trước khi hạ sanh, một thiên sứ đã tiên báo với cha phần xác của Người :

"Ngươi hãy đặt tên là Giê-Xu, vì chính con trai đó sẽ cứu dân mình ra khỏi tội"(Mathiơ 1:21)

GIÊ-XU. Chỉ tên gọi đã nói lên được bản chất của Người. GIÊ-XU - ĐẦNG CỨU THẾ. Đấng Cứu Rổi mà Thượng Đế đã hứa với nhân loại từ khi tội lổi xâm nhập vào thế gian. Môi-se đã được Thượng Đế chọn lựa để giải thoát dân Ysơraên khỏi ách nô-lệ của người Ai-cập. Chúa Cứu Thế Giê-xu đến từ Trời để giải thoát tất cả nhân loại khỏi xiềng xích và hình phạt của tội lỗi.


GIÊ-XU LÀ MỘT NHÀ CÁCH MẠNG

Chúa Giê-xu đã làm đảo lọn thế giới tôn giáo và chính trị trong thời Ngài. Ngài đã quét sạch những quan điểm sai lạc về Thượng Đế. Ngài xem thường những tập tục và truyền thống do loài người tạo ra. Ngài đã khiển trách những người lãnh đạo tôn giáo và chính trị thời đó- vốn xưa nay được xem là không thể sai lầm - khi họ lạm dụng quyền lợi và xữ dụng quyền lực của mình một cách bừa bãi. Ngài vi phạm mọi luật lệ về đạo đức khi bầu bạn với những người bị Xã-hội ruồng bỏ, người thuộc từng lớp hạ lưu và những kẻ bị xem là vô dụng.

Giới lảnh đạo tôn giáo Do Thái đòi hỏi rằng tội tà dâm và cướp của phải chịu hình phạt tối đa. Thế mà Chúa Giê-xu tha thứ cho một người nữ phạm tội tà dâm và làm bạn với một người làm đầu bọn thâu thuế. Đối với những nhà soạn thảo chính sách tôn giáo của thế kỷ đầu tiên tại Palestine, ngày Sa-bát là thánh. Ngay cả những việc làm nhân đạo cũng bị kể là phạm luật. Thế mà Chúa Giê-xu chửa lành người bịnh trong ngày Sa-bát. Người Do Thái tán thưởng những người dâng hiến nhiều tiền của cho đền thờ. Nhưng Chúa Giê-xu dạy rằng điều quan trọng không phải là dâng bao nhiêu mà là động lực nào khiến người đó dâng hiến.

Đã nhiều năm quakhông một ai dám thốt một lời nghịch lại với giới lảnh đạo nhà hội. Nhưng Chúa Giê-xu thấy xuyên qua bộ mặt giả hình và tham lam của họ, và gọi họ là mồ mã tô vôi trắng.

 

CHÚA GIÊ-XU LÀ MỘT NHÀ CẢI CÁCH

Những người Naxalites tại Ần-độ và Quân Đội Cộng Hòa Ái Nhĩ Lan tại Belfast là những nhà cách mạng, nhưng không phải là nhà cải cách. Nhà cách mạng chống lại hệ thống cai trị đã có sẵn, nhưng nhà cải cách tiến một bước xa hơn. Người đó đề nghị những phương cách khác để thay thế. Chúa Giê-xu không những lên án sự giả hình và kiêu ngạo thuộc linh trong thời Ngài, mà còn cho họ biết cách nào để khắc phục nó.

Ngài không những cho người Do Thái biết rằng tất cả những việc cúng bái của họ sẽ không đem họ đến thiên đàng, mà còn chỉ cho họ một con đường dẩn đến sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngài không những cho người đàn bà tại giếng Si-kha biết rằng nước mà bà đi múc mỗi ngày sẽ không làm hết cơn khác thuộc linh, mà còn ban cho bà nước hằng sống.

Đấng Christ có một mục đích rỏ-ràng khi đến trần gian, đó là thay đổi bản chất của con người. Người dạy cho Ni-cô-đem một nhà thần học quí phái và đábg kính đương thời rằng tuân giữ luật pháp chưa đủ. Mọi người cần phải được "tái sanh".(Giăng 3:3)

Sự cải cách mà đấng Christ muốn mang đến cho đời sống và lối suy nghĩ của nhân loại là một sự cải cách gây chấn động thế giới. Ngài dạy mọi người rằng yêu thương người lân cận chưa đủ, họ phải yêu thương kẻ thù nghịch mình nữa! Ngài dạy rằng không phải chỉ những tội lổi xảy ra bên ngoài như giết người hay vô đạo đức mới là điều quan trọng, Đức Chúa Trời còn xét đoán loài người qua tư tưởng thầm kín là động cơ thúc đẩy những hành động đó. Ngài dạy rằng việc bố thí, làm lành hay hành hương sẽ không mang họ đến với Thượng Đế; chỉ đức tin trong Ngài là bí quyết của vấn đề.


CHÚA GIÊ-XU LÀ ĐẦNG GIẢI CỨU

Ngài là nhà cách mạng, Ngài là nhà cải cách nhưng khía cạnh quan trọng hơn cả trong bản chất của đấng Christ là vai trò của một Đấng Giải Cứu nhân loại.Cuộc đời Ngài tận hiến cho công tác giải thoát con người khỏi xiềng xích tội lổi và mang con người về với Thiên Chúa là đấng mà con người đã phản nghịch. Ngài phán với đoàn dân theo Ngài : "Con Người đã đến để tìm và cứu kẻ bị hư mất." (Lu-ca 19:10)

Một câu chuyện kể rằng có một bá tước người Nga và vợ đi trên chiếc xe ba ngựa qua một miền quê vắng vẽ. Hành khách duy nhất khác trên xe là Andrei,tên đầy tớ trung thành.

Thình lình, không biết từ đâu, một bầy chó sói đói ăn bổng xuất hiện và tấn công chiếc xe. Bá tước liền thả một con ngựa, tưởng rằng bầy chó sói sẽ bắt nó làm mồi và mình có thì giờ chạy thoát. Nhưng ông đã lầm. Bầy chó ăn thịt con ngựa trong giây lát, và mùi máu làm chúng thêm hung tợn. Chúng lại chạy theo tấn công.

Bá tước và vợ rất kinh sợ. Họ không thể thả thêm một con ngựa vì chiếc xe sẽ lật nhào, mà những chiếc miệng đói thì chỉ cách trong gang tất.

Cuối cùng, khi tất cả hy vọng dường như tiêu tan, người đầy tớ trung thành Andrei đã tự nhảy xuống làm mồi cho bầy chó dữ. Vợ chồng bá tước thoát nạn bởi vì người đầy tớ yêu mến họ đến nổi đã hy sinh mạng sống mình cho họ.

Chúa Giê-xu cũng đã làm như vậy. Ngài từng bình đẳng với Đức Chúa Trời, nhưng Ngài từ bỏ vinh hiển Thiên đàng, mang thân xác con người để giải cứu thế nhân hư mất. Tiêu chuẩn của Thượng đế là toàn hảo, nhưng con người không thể đạt đến tiêu chuẩn đó. Giá phải trả quá cao. Để thực hiện điều này, Đấng Christ đã hy sinh mạng sống Ngài như một cái giá trả cho con người, để họ có thể đến với Thiên Chúa mà không có bất cứ một phương pháp nào khác.

Thánh kinh ghi rằng : " Chúng ta thảy đều như Chiên đi lạc, ai theo đường nấy, Đức Giê-hô-va đã làm cho tội lổi của hết thảy chúng ta đều chất trên Người."(Ê-sai 53:6). Giê-xu phán : " Ta là người chăn hiền lành, người chăn hiền lành vì chiên mình phó sự sống mình."(Giăng 10:11)

Chúa Cứu Thế Giê-xu đã làm hòa giửa Thượng đế với con người, và truyền bá sứ điệp của Thượng đế đến với thế nhân lạc mất. Có bốn điều khiến cho sứ điệp đó trở thành quan trọng nhất trong mọi thời đại.

1. Đó là sứ điệp yêu thương

Chúa Giê-xu phán : " Vì Đức Chúa Trời thương yêu thế gian, đến nổi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hể ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời."(Giăng 3:16)

Một vài tôn giáo dạy người ta tin rằng Thượng đế là đấng bất thường, hay báo thù đòi hỏi sự toàn hảo nơi tạo vật của Ngài, hay nổi giận nếu không đạt được đều mình muốn. Chúa Giê-xu đã chứng minh rằng điều đó đã hoàn toàn sai sự thật. Làm thế nào một Thượng đế giận dữ lại hy sinh Con Một của Ngài cho thế gian mà Ngài đã tạo dựng? Dĩ nhiên là không! Chính bởi tình thương bao la của Ngài đối với con Người mà Ngài đã kiên nhẫn và triều mến họ mặc dầu con người bất tuân lời Ngài từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Cũng chính tình thương này thúc đẩy Đấng Christ trở thành người và chết cho mọi người. " Này sự yêu thương ở tại đây : ấy chẳng phải chúng ta đã yêu Ngài, nhưng Ngài đã yêu chúng ta, và sai Con Ngài làm lễ chuộc tội chúng ta." (I Giăng 4:10) "Bởi đó chúng ta nhận biết lòng yêu thương ấy là Chúa đã vì chúng ta bỏ sự sống." ( I Giăng 3:16)

2. Đó là sứ điệp ban sự sống

Các nhà tâm lý cho biết rằng ý chí sinh tồn là sự thúc đẩy mạnh nhất trong con người. Chính lòng muốn sống này đã giúp hàng ngàn người Do Thái sinh tồn ngay cả trong những trại tập trung hãi hùng ghê rợn của Đức Quốc xã. Để đáp ứng cho thứ ý chí này mà người ta viết ra những loại sách như " Làm thế nào để Cười Nhiều hơn và Sống lâu hơn".

Chúa Cứu Thế không hứa một đời sống dài lâu nhưng là sự sống vĩnh cữu. " Ai nghe lời Ta và tin Đấng đã sai Ta thì được sự sống đời đời, không đến sự phán xét, song vượt khỏi sự chết mà đến sự sống." (Giăng 5:24). Và một lần nữa Ngài phán : " Ta là sự sống lại và sự sống, kẻ nào tin Ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi. Còn ai sống mà tin Ta thì không hề chết." (Giăng 11:25-26)

Hậu quả của tội lổi là sự chết. " Tiền công của tội lổi là sự chết." (Rôma 6:23) "Linh hồn nào phạm tội thì phải chết."(Ê-xê-chi-ên 18:4) . Để trả giá đó Chúa cứu thế đã chết cho tất cả mọi người dù ở bất cứ thế hệ nào. Bây giờ Ngài ban sự sống đời đời cho những ai nhận sự hy sinh đó bằng cách tin ở Ngài và mời Ngài làm Cứu Chúa đời mình. Ngài phán : " Ta đã đến hầu cho chiên được sống và sự sống dư dật." (Giăng 10:10)

3. Đó là sứ điệp đời đời

Sứ điệp của Chúa Cứu Thế chỉ chứa trong 89 đoạn Kinh Thánh, nhưng đã được hàng ngàn giáo sư và học sinh của rất nhiều đại học nghiên cứu. Hàng ngàn bộ sách đã và đang được viết về sứ điệp ấy. Tất cả những học giã trong lịch sữ và tất cả những nhà thông thái ngày nay vẫn còn kinh ngạc trước sự sâu nhiệm và khôn ngoan của tình yêu và sự hợp lý của Đạo Ngài. Nếu Thánh kinh chỉ là một quyển sách như những quyển sách khác - một số người đọc - ít người nhớ đến, và chỉ trưng bày trong thư viện hay quăng vào một só nào đó.

Tuy nhiên sứ điệp của Thiên chúa vẫn đứng vững trước sự thử thách của thời gian. Nhiều nhà chỉ trích cố gắng bác bỏ nó, người cuồng tín cố gắng từ khước nó, lịch sữ cố gắng quét sạch sự hiện hữu của nó. Nó bị gán cho những nhãn hiệu như chuyện hoang đường, dối trá, sản phẩm của trí tưởng tượng, nhưng sau cùng, khi tất cả những lời lăng mạ qua đi, khi những người chỉ trích khàn giọng, khi kẽ chế diểu trở về nhà, chỉ một điều còn lại và bất biến - Lời Hằng Sống của Đức Chúa Trời.

Những bài giảng của Chúa Cứu Thế được gọi là những Tuyệt Tác Bất Tữ. Những văn sĩ vay mượn chúng, luật pháp đặt nền tảng trên đó, và tương lai nhân loại đã được tiên báo. Thánh kinh đã được dịch ra hơn một ngàn thứ tiếng và không một quyển sách nào có thể so sánh với lượng phát hành của Thánh Kinh.

" Không một ai sống trên trái đất này, dù ở chân trời hay góc bể, mà không bị ảnh hưởng ít nhiều bởi sứ điệp Tin Lành. Mới nghe qua, xem có vẽ như quá lố, nhưng nếu xem xét kỹ thì đây là một sự thật." ( Báo Intelligence Digest, số tháng 12 năm 1953)

Thánh Kinh đã được viết hàng ngàn năm về trước, thế mà con người của thế kỷ hai mươi vẫn tìm được sự đáp ứng cho nhu cầu của họ như những tín đồ đầu tiên tìm được. Thời gian không làm lu mờ sự thật bất biến rằng Đức Chúa Trời yêu thương và quan tâm, rằng đấng Christ có câu giải đáp cho mọi nan đề, rằng con đường duy nhất của nhân loại đến với Thượng Đế là qua Chúa Cứu Thế Giê-xu.

4. Đó là sứ điệp giải thoát

Người ta hỏi Sir James Simpson rằng điều nào ông cho là sự khám phá vĩ đại nhất của ông. Thay vì trả lời " Chloroform", thuốc gây mê mà ông đã tìm ra, ông nói : " Sự khám phá vĩ đại nhất của tôi xảy ra vào ngày 25 tháng 12 năm 1861, đó là tôi là một tội nhân và Chúa Cứu Thế là Cứu Chúa của tôi."

Người mù từ thuở sanh ra, bị buộc phải tuyên bố đấng Christ là một tội nhân sau khi Ngài chữa lành cho anh ta. Anh đã trả lời : "Tôi không biết người đó có phải là tội nhân hay không. Nhưng tôi biết chắc một điều : tôi đã mù mà bây giờ lại sáng." Dù là sự mù lòa thuộc linh của Simpson hay mù lòa thuộc thể của người Do Thái trong thế kỷ thứ nhất này, thì ánh sáng của Tình yêu và sự hy sinh của Đấng Christ vẫn kết quả như nhau.

Tội lổi làm nghẹt ngòi, bóp méo, và làm biến dạng tâm trí và tính tình của chúng ta; Đấng Christ giải thoát và ban cho chúng ta sự tự do hầu trở thành mẫu người mà Thiên Chúa mong muốn. Đời sống sẽ không đột nhiên trở thành một thảm hoa Hồng, nhưng sự thất vọng và những nổi khó khăn sẽ không còn đè bẹp chúng ta. Đó là điều mà Cứu Chúa muốn dạy khi Ngài phán : " Nếu Con buông tha các ngươi, thì các ngươi thật được tự do."(Giăng 8:36). Ngài cũng phán : " Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, Ta đã thắng thế gian rồi."(Giăng 16 : 33). Những ai từng đối diện với Chúa Giê-xu sẽ không còn giống như trước nữa. Ta hãy nghe sau đây những lời làm chứng thốt ra từ miệng một số người :

1. Người mù Ba-ti-mê : " Chúa Giê-xu đã giới thiệu cho tôi vào hai thế giới. Ngài đã chửa lành đôi mắt xác thịt của tôi và mở cho tôi đôi mắt thuộc linh để thấy những điều tôi mù lòa ngày trước."
2. Mari Ma-đơ-len : " Trước kia tôi nghĩ rằng khi được người khác yêu là đủ thỏa mãn. Tôi đã hoàn toàn vỡ mộng. Đấng Christ ban cho tôi nhìn thấy ý nghĩ thật. Bây giờ sự sống và tình yêu thiên thượng sôi sùng sục trong tôi."
3. La-xa-rơ : " Chúa Giê-xu đã chạm đến thể xác hư nát của tôi! Bây giờ tôi hưởng một đời sống mới trong một thế gian mới, vượt lên trên những ràng buột của đời sống trần tục này."
4. Người đàn bà phạm tội tà dâm : " Chúa Giê-xu là người duy nhất có quyền xử tữ tôi. Và Ngài là Đấng duy nhất không làm điều đó! Ngài đã lấy đi đời sống hèn mạt của tôi và trả lại cho tôi một đời sống trong sạch. Bây giờ Ngài ban cho tôi quyền năng để sống một cuộc đời thánh khiết."
5. Ni-cô-đem : " Tôi là một giáo sư Thần học mà không biết những điều căn bản về thần học cho tới khi tôi đối diện với Chúa Giê-xu. Ngài đã tuôn tràn vào khoảng trống của đời sống tôi bằng Lời Hằng Sống của Ngài."
6. Người đàn bà Sa-ma-ri : " Chúa Giê-xu đã dập tắt cơn khát thuộc linh của tôi. Ngài cho tôi thứ nước mà tôi chưa hề nếm. Và kỳ diệu thay, nước này còn tưới mát cho những đời sống khô cằn khác nữa."
7. Xa-chê : " Tôi đã từng bị người ta xa lánh, hất hủi, khinh rẽ cho đến khi Ngài phục hồi địa vị tôi dưới mắt Thiên Chúa và Xã hội."
8. Thô-ma nghi ngờ : " Tôi sanh ra là một con người hay nghi ngờ. Tôi không thể nào tin rằng Chúa Giê-xu là kẻ chết sống lại. Ngài không hề trách cứ tôi, và khi Ngài bày tỏ chính mình cho tôi, tôi không thể cầm lòng mà xưng rằng : "Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi"."
9. Thầy Đội : " Tôi đã quá chai lì trước cái chết của nhiều tữ tội, nhưng trường hợp Chúa Giê-xu thì khác, thái độ của Ngài trên Thập tự giá, lời cầu nguyện của Ngài cho kẻ thù và chính thái độ điềm nhiên trong lúc chết của Ngài đã đưa tôi đến kết luận không hề lay chuyển rằng chính Ngài là Con của Đức Chúa Trời."


CỨU CHÚA HẲNG SỐNG

Đám mây mù bao phủ cổ thành Giê-ru-sa-lem một buổi sáng Chúa nhật 2000 năm trước. Mặt trời vẫn chiếu sáng rực rở, nhưng nỗi thất vọng kinh khiếp xâm chiếm tấm lòng của một số dân cư trong thành còn tối hơn màn đêm. Họ là những người yêu mến một người tên Giê-xu và chứng kiến Ngài bị thảm sát bằng một trong những cái chết rùng rợn nhất mà con người đã nghĩ ra.

Sự sợ hãi làm cho nỗi đau buồn của họ thêm thắm thía. Họ kính mến người lảnh đạo, nhưng không dám tụ hợp công khai dưới danh nghĩa của Ngài. Những nhà lảnh đạo tôn giáo và chính trị đầy lòng ganh tị đã xách động dân chúng tại Giê-ru-sa-lem để lòng họ đầy sự oán ghét, và có thể lắm nạn nhân kế tiếp sẽ là những môn đồ của người Na-sa-rét đó.

Những biến cố tang thương trong tuần lể trước đó cứ ám ảnh tâm tư của nhóm bạn hữu Chúa Giê-xu. Cuộc bố ráp thình lình của đoàn quân La mã trong vườn Ghết-sê-ma-nê để tìm bắt Chúa, phiên tòa dai dẳng vào giờ giấc quái gỡ, sự sĩ nhục và hành hạ giáng trên nạn nhân vô tội, bất lực bởi một trò hề công lý; những chiếc đinh ngoan nghiệt xé nát tay chân Ngài và cuối cùng là cái chết dai dẵng đau thương trên thập giá.

Một số câu hỏi cứ tiếp tục lẩn quẩn trong đầu óc rối nùi của họ. Chúa Giê-xu đã phạm phải tội hình gì ? Phải chăng chữa lành người bịnh hoạn, ban bánh cho người đói, làm bạn với những người cô đơn là tội không thể tha thứ ? Làm sao mà con người "văn minh" lại có thể độc ác và bạo hành đến độ cùng cực như thế ? Không lẽ điều thiện luôn luôn bị điều ác lấn ép hay sao ? Nỗi bối rối của họ cũng dễ hiểu. Họ đã mất Thầy, Đấng sáng lập niềm tin của họ, và niềm hy vọng gặp lại Ngài rất là mỏng manh. Họ khọng còn điều gì để mong đợi, không còn lẽ sống. Và họ chỉ có thể làm một điều : trở lại với nghề cũ, với thuyền và lưới đánh cá, với biển cả ngàn năm.

NGÔI MỘ TRỐNG

Cùng ngày đó, những bản báo cáo kỳ dị và đầy mâu thuẩn bắt đầu truyền tụng trong thành phố. Chẳng bao lâu, mọi người đều bàn tán, ai cũng cho là mình biết chuyện. Có người cho rằng Giê-xu mà hàng triệu người chứng kiến bị đóng đinh và chôn đã sống lại. Những người khác quả quyết rằng các môn đồ đã thừa lúc lính canh ngủ gục đánh cắp thân xác Ngài. Cũng có nhiều người bịa ra những lý luận khác nhau để giải thích về việc thân xác Giê-xu không còn trong phần mộ.

Nếu thật sự các môn đệ đã đánh cắp xác vị Thầy của họ thì giới cầm quyền La-mã phối hợp với người Do Thái đã phanh phui ra âm mưu này rồi. Họ sẽ truy ra chổ dấu xác, kéo lê lết các đường phố Giê-ru-sa-lem và tuyên bố với dân chúng rằng : " Ai nói Christ sống lại từ cỏi chết ? Hãy nhìn đây! Hãy chứng kiến tận mắt thân xác mục nát. Hắn đã chết tận xương tủy." Làm như thế chắc họ đánh tan được " huyền thoại " về sự phục sinh và làm câm miệng những kẻ theo Chúa mãi mãi.

Thế nhưng kẻ thù của đấng Christ không thể làm được điều này vì lý do đơn giản là không tìm đâu ra thân xác mục rửa đó. Ngôi mộ đã trống mặc dầu có dấu ấn của hoàng đế và lính canh cẩn mật. Không ai có thể phủ nhận lời chứng sắc bén này : "Tại sao các ngươi tìm người sống trong vòng kẻ chết ? Ngài không ở đây đâu. Ngài đã sống lại."

GIẢ THUYẾT "BẦT TỈNH"

Lý thuyết cho rằng Giê-xu Christ đã tỉnh lại - hoặc hồi sinh sau một cuộc hôn mê hay ngất xỉu tạm thời- là chuyện không thể có trong sinh vật học. Ngài không ăn uống trong thời gian ít nhất là 17 giờ đồng hồ. Cơ thể và cảm xúc của Ngài chịu đau đớn nhiều giờ. Ngài bị chảy máu trên đầu, tay và chân ít nhất 6 tiếng đồng hồ - từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Và để bảo đảm rằng Ngài đã chết, thì một tên lính dùng giáo đâm ngang sườn Ngài, thì thấy máu và nước chảy ra. Có thể nói chỉ sau khi giấy khai tữ được nhà cầm quyền ký, thân xác của Chúa Giê-xu mới được phép đem đi chôn.

ẢO GIÁC ?

Phải chăng những môn đồ Chúa bị ảo giác lừa dối ? Phải chăng hình ảnh mà họ cho là Đấng Christ chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng quá độ ? Nếu quả là ảo giác, thì làm thế nào chúng ta có thể giải thích sự thật là rất nhiều người trong bọn họ ai cũng cho rằng mình đã thấy Chuá Giê-xu trong nhiều trường hợp khác nhau ? Nghiên cứu kỷ những sách Phúc âm cho chúng ta thấy rằng sự phục sinh của Đấng Christ đã làm cho môn đồ của Ngài hoàn toàn kinh ngạc. Những người đàn bà trung tín đến phần mộ để xức thuốc thơm theo tục lệ Do Thái đã quá sợ hãi khi họ thấy chỉ còn tấm vải liệm (Mác 16 : 8)

Trên đường về làng Em-ma-út, hai môn đồ bị dày xéo bởi niềm đau khổ vô biên. Họ đang than vãn về sự mất mát lớn lao của họ, không hề nghĩ đến chuyện Chúa Giê-xu sống lại, thì bổng nhiên Giê-xu đến gặp họ (Luca 24:31). Thô ma nhất định không chịu tin là Đấng Christ đã phục sinh cho đến khi Ngài bảo Ông sờ vào những dấu đinh. Trong sự kinh ngạc hoàn toàn, ông đã la lên : "Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi" (Giăng 20 : 25-26). Những môn đồ tại bờ hồ Ga-li-lê rất sửng sốt khi Chúa Giê-xu hiện ra với họ (Giăng 21:7). Nhiều người trong những trường hợp khác nhau đã xác nhận là họ có nhìn thấy Cứu Chúa sau khi Ngài sống lại từ cỏi chết :

1. Ma-ri Ma-đơ-len (Mác 16:9)
2. Những người đàn bà khác (Mathiơ 28 : 9)
3. Hai môn đồ trên đường về làng Em-ma-út (Luca 24:15)
4. Phi-ê-rơ (I Côrinhtô 15:5)
5. Mười môn đồ khi không có Thô-ma ( Giăng 20 : 19)
6. Mười một môn đồ khi có Thô-ma ( Giăng 20 : 26)
7. Tại bờ biển Ga-li-lê ( Giăng 21:1)
8. 500 anh em (I Côrinhtô 15:6)
9. Mười một môn đồ tại Ga-li-lê (Ma-thi-ơ 28 : 7)
10. Gia-cơ (I Côrinhtô 15:7)
11. Khi Ngài thăng thiên (Luca 24:50)
12. Ê-tiên (Công vụ 7:56)
13. Sau-lơ người Tật-sơ, sau gọi là Phao-lô (I Côrinhtô 15 :58)

Chỉ ba ngày trước khi Chúa chết, những môn đồ của Ngài là một nhóm người hèn nhát, sợ hãi. Giu-đa bán thầy với giá 30 nén bạc; Phi-ê-rơ chối rằng mình không hề biết Chúa; tất cả bọn họ bỏ Ngài chạy trốn khi sự thử thách đến. Thế mà chỉ vài tháng sau, cũng chính người hèn nhát này đã làm rúng động thế giới. Họ nói với giới lảnh đạo Do Thái rằng : " Giê-xu này mà các ông đã giết một cách dã man đã được Đức Chúa Trời làm sống lại và tôn làm Chúa." Và họ đã lập lại nhiều lần lời tuyên bố phi thường này giữa nanh vuốt của sự chống đối và bách hại.

Chỉ có một lời giải thích cho sự thay đổi lạ lùng nầy, đó là từng cá nhân môn đồ đã đối diện với Đấng Christ phục sinh và tin chắc rằng Ngài quả thật là Con của Đức Chúa Trời.


MỘT LỜI CHỨNG KHÔNG THỂ ĐẢ PHÁ ĐƯỢC

Sau-lơ, về sau gọi là Phao-lô, là một trong những kẻ thù hăng say nhứt của Hội thánh lúc ban sơ. Chính lời ông nói mình "bắt bớ và tà phá Hội thánh". Ông đã làm tất cả những gì mình có thể làm được để nhổ tận gốc điều mà ông cho là dị giáo, tà thuyết. Ông đã thực hiện chiến dịch càn quét Cơ-đốc nhân bằng tất cả mưu trí, sáng kiến và ảnh hưởng của mình. Sau-lơ đối với tín đồ thời đó cũng như Hitler đối với người Do Thái vậy.

Trong nổ lực cuối cùng nhằm tiêu diệt Hội Thánh sơ khai, Sau-lơ trang bị cho mình một ủy nhiệm thư của thượng cấp ở Giê-ru-sa-lem, quy tụ một đạo quân có chung mục đích với ông rồi ào ạt kéo đến thành Đa-mách để bắt giết những tín đồ tại đó. Ông đã hoàn toàn thất bại. Chúa Giê-xu đã đối diện với ông bằng tất cả sự vinh quang và cao cả của Ngài. Chúa đã đỗi mới toàn vẹn cuộc đời của ông. Ta hãy nghe lời làm chứng của ông bằng lối văn linh động : " Ầy vậy, tôi lên thành Đa-mách có trọn quyền và phép bởi các thầy tế lễ cả, đương đi dọc đường, muôn tâu, giữa lúc trưa, tôi thấy có ánh sáng từ trên Trời giáng xuống, chói lói hơn mặt trời, sáng lòa chung quanh tôi và những kẽ cùng đi. Chúng tôi thảy đều té xuống đất, và tôi nghe có tiếng phán cùng tôi bằng tiếng Hê-bơ-rơ rằng : " Hởi Sau-lơ, sau-lơ, sao ngươi bắt bớ Ta ? Ngươi đá đến ghim nhọn thì khó chịu cho Ngươi vậy." Tôi thưa : "Lạy Chúa, Chúa là ai ?". Chúa đáp rằng : " Ta là Giê-xu mà ngươi đang bắt bớ. Song hãy chờ dậy và đứng lên, vì ta đã hiện ra cho ngươi, để lập ngươi làm chức việc và làm chứng về những việc ngươi đã thấy, cùng những việc Ta sẽ hiện đến mách cho ngươi. Ta sẽ bảo vệ ngươi khỏi dạn này và dân ngoại là nơi Ta sai ngươi đến, đặng mở mắt họ, hầu cho họ từ tối tăm mà qua sáng láng, từ quyền lực của quỷ Sa-tan mà đến Đức Chúa Trời, và cho họ bởi Đức Tin nơi Ta được sự tha tội, cùng phần gia tài với các thánh đồ"."(Công vụ 26 : 12-18)

Như thế kẻ bách hại nổi danh đã được biến đổi thành một nhà giảng đạo lừng danh. Làm thế nào mà một người hất hủi Cơ-đốc giáo và xem thường câu chuyện phục sinh như một huyền thoại lại trở nên một người truyền bá đức tin Cơ-đốc lỗi lạc nếu không bởi vì ông đã thực sự thấy Chúa phục sinh, nghe sứ mạng của Ngài như lời ông đã kể

NẾU NHƯ NGÀI KHÔNG ĐẾN...

Bạn có bao giờ ngừng lại giây lát để suy nghĩ cuộc đời trong thế gian này sẽ ra sao nếu không có Đấng Christ ? Từ ngữ "Cơ-đốc-nhân" sẽ không tìm thấy trong tự điển, sẽ không có nhà thờ, thánh ca hay kinh cầu nguyện. Kinh Thánh sẽ chấm dứt ở sách Ma-la-chi, và con người sẽ phải cố gắng hết sức đi tìm đường cứu rổi cho mình. Sẽ không có hy vọng thoát khỏi sự chết kinh khiếp và vĩnh viễn.

Sẽ không có đạo chích, tướng cướp, bợm rượu, gái giang hồ, người điên loạn, trẻ bụi đời hay người già cô độc nào cảm nhận sự đổi mới đầy quyền năng của tình yêu đấng Christ nếu Ngài không đến với trần gian.

Sự hiện thân của Đấng Christ giúp chúng ta đánh dấu thời gian. Lịch sử được phân chia thành hai thời đại : Trước Chúa và sau Chúa Giáng sinh - B.C và A.C. - Mọi quốc gia trên thế giới, kể cả khối cộng sản, đều tin rằng mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi xã hội đều được cai quản bởi luật lệ. Mọi chủng tộc đều có những nguyên tắc đạo đức. Tất cả đều trích ra từ Bài Giảng Trên Núi. Nếu Cứu Chúa cứ ở trên thiên đàng, thế giới nầy sẽ là một thế giới thiếu tình thương, vô luật lệ, y hệt thứ thế giới mà luật pháp và công lý La-mã đã sản xuất; sự thờ hình tượng, ma thuật, sự hỗn loạn và vô đạo đức sẽ hoành hành trên thế-giới.

H.G.Wells đã nói về ảnh hưởng nỗi bật của Đấng Christ trên nền văn minh của nhân loại như sau : " Chúa Giê-xu chiếm một vị thế vĩnh viễn về quyền năng bởi kết quả của những tư tưởng đơn sơ, mới lạ và sâu sắc mà Ngài thực hiện - ý niệm về từng cá nhân sống trong tình phụ tử Đức Chúa Trời và ý niệm về thiên đàng. Đó là một trong những sự thay đổi tận gốc rễ về cái nhìn đối với cuộc đời. Sự thayđổi này đã quấy động và biến cải tư tưởng nhân loại. Thế giới bắt đầu đổi khác từ ngày giáo lý đó được giảng dạy."

Không có Đấng Christ, nhiều trường học, viện mồ côi và những nơi trú ẩn khác mang danh hiệu của Ngài sẽ không bao giờ thành hình. Nhiều người sẽ không bao giờ cảm thấy được thúc giục rời bỏ gia đình, sự giàu sang tiện nghi, để đi ra rao giảng Phúc âm của Ngài ở những nơi xa xôi, nguy hiễm trên thế giới. Sẽ không có những nhà truyền giáo, thầy giảng, mục sư, bác sĩ, y tá Cơ-đốc. Những người như William Carey, David Livingstone, Hudson Taylor, C.T.Studd, George Mueller, Florence Nightingale, John Bunyan, D.L.Moody, Sadhu Sundar Singh, John Sung, Billy Graham và nhiều người khác nữa sẽ không bao giờ có chút ảnh hưỡng nào trên đời sống người khác và quay được đôi mắt họ hướng về thập tự giá.

Nếu Đấng Christ không đến, chắc không có hy vọng phá tan được bức tường ngăn cách chủng tộc, văn hóa, chính trị, màu da hay ngôn ngữ và lý thuyết của Rudyard Kipling "Đông là đông, Tây là tây, Đông và Tây không bao giờ gặp nhau" đã trở thành sự thật. Nhưng Cơ-đốc nhân trên toàn thế giới đã chứng minh rằng lý thuyết này không đúng chút nào.


ẢNH HƯỞNG RỘNG LỚN CỦA NGÀI

Bí quyết thành công của Đấng Christ, nếu ta có thể nói như thế, chính là khả năng của Ngài thay đổi được tấm lòng con Người - điều mà tất cả sự giáo dục và tiến bộ trên thế giới đã thất bại. Giáo sư C.E.M Joad tuyên bố : "Chúng ta biết điều gì có thể thay đổi tấm lòng con người. Chúng ta biết điều đó 2000 năm rồi. Chỉ cơ đốc giáo mới có thể thực hiện được điều đó."

Ảnh hưởng của Đấng Christ vẫn rỏ ràng, hiển nhiên ngày nay cũng như khi Ngài còn tại thế. Những vĩ nhân ban đầu có uy quyền, kế đó là còn chút danh tiếng, và sau cùng được nhân loại dành cho một sự ghi nhớ. Tuy nhiên, Đấng Christ vẫn liên tục giử địa vị uy quyền nhất trong lịch sử.

Ngày nay danh Chúa Giê-xu được rao giảng đến mọi chân trời gốc bể. Những đài phát thanh như "Viễn đông", H.C.J.B., "Giờ Thánh kinh kiểu xưa" và nhiều chương trình khác vẫn rao ra sứ điệp của Ngài suốt ngày đêm. Những nhà in khổng lồ vẫn in hàng triệu sách báo về Ngài hàng năm. Hàng triệu bản kinh Thánh bằng nhiều ngôn ngữ vẫn phát hành liên tục.

Đấng Christ chạm đến ngay cả hầu bao của con người. William Colgate ban đầu dâng hiến một phần ba lợi tức cho Chúa và cuối cùng dâng luôn tất cả. C.T.Studd từ bỏ việc làm béo bở và gia tài khổng lồ để làm giáo sĩ cho người Trung hoa và Phi châu. John Wesley dâng gần 40,000.00 bảng Anh cho công việc Chúa và chết trong sự nghèo túng. Tại sao ? Bởi vì Đấng Christ đã ban cho những người này một gia tài mà tất cả tài sản trần gian của họ không thể mua được -đó là sự sống đời đời và sự bình an trong tâm hồn.

Giê-xu Christ là bạn đồng thời của mọi người. Ảnh hưởng của Ngài là toàn cầu. Sức lôi cuốn của Ngài là vô tận. Quyền năng của Ngài không giới hạn. Không hề có ai giống như Ngài. Không ai nói những lời như Ngài, làm những việc Ngài làm. Không ai sống cuộc đời như Ngài, và chết như Ngài. Không ai chiến thắng sự chết như Ngài đã chiến thắng. Không ai ban niềm hy vọng như Ngài. Những kẻ chỉ trích và chống đối không thể bỏ qua những sự thật này. G.K.Chesterton nói : "Thà là ta xé áo để kết luận Ngài là phạm thượng như Cai-phe tại tòa Công Luận, hay là xúc phạm đến Ngài như những người đồng hương. còn hơn là ngu xuẩn xem nhẹ quyền năng của Ngài".

CHÚA GIÊ-XU VẪN CẨN THIẾT NGÀY HÔM NAY

Sau khi nói chuyện tại một buổi nhóm đặc biệt cho sinh viên trường đại học McGill tại Montreal, Gia-nã-đại, một tiến sĩ tương lai đến hỏi tôi : "Mấy điều tầm bậy, tầm bạ về Thượng đế và tôn giáo này là cái gì vậy ? Hầu hết chúng tôi đều cho rằng tôn giáo là thuốc ru ngủ của người ngu dại, còn Thượng đế thì đã chết rồi." Tôi trả lời : "Bạn ơi! Thượng đế của bạn có lẽ đã chết, nhưng thượng đế của tôi vẫn hằng sống. Ngài đang thực hiện những việc kỳ diệu tại những nơi như Nam Dương, Mã Lai, Ần độ, Nhựt bổn, Việt Nam, và nhiều quốc gia khác. Kẻ đau được chữa lành, kẻ bị quỷ ám được thoát khỏi, nhiều đời sống được tái tạo bởi Cứu Chúa Giê-xu. Đây không phải là tin đồn. Chính tôi đã chứng kiến và kinh nghiệm quyền năng Ngài thể hiện."

Tôi nói tiếp : "Hãy lấy ba mươi thân nhân của tôi làm thí dụ. Đã nhiều năm họ sống trong xiềng xích mê tín và cấm kỵ. Cuộc đời họ chỉ là rượu chè, đàn bà và ca hát. Một ngày kia, Đức Chúa Trời hằng sống - Cứu Chúa Giê-xu - đã chạm đến họ, và họ không còn như ngày trước nữa. Tôi đã chứng kiến điều này xảy ra cho hàng chục ngàn người trên khắp thế giới. Nếu Thượng đế của bạn đã chết, hãy tiếp nhận Thượng đế của tôi! Ngài hằng sống và vẫn cần thiết cho ngày nay."

Ba tù nhân tại Singapore bị án tử hình. Tôi hân hạnh được chia xẽ với họ về tình yêu của Đức Chúa Trời bày tỏ qua Đấng Christ, và sau nhiều lần thăm viếng, tất cả ba người đều tin nhận Cứu Chúa. Trước khi bị hành quyết, họ đã làm chứng như sau : "Chúng tôi sẽ chết vì những việc làm gian ác của mình, nhưng sẽ bước vào cõi đời đời không phải như là những tội nhân mà là con cái của Đức Chúa Trời, vì Ngài đã tha thứ và tiếp nhận chúng tôi qua Cứu Chúa Giê-xu."

Một người lính Anh còn trẻ tuổi có ý định tự tử thì có người đưa anh đến dự một trong những buổi giảng của tôi tại Ipoh, Mã-lai. Cuộc đời không còn ý nghĩa và mục đích cho anh. Nhưng khi nghe về Đức Chúa Trời hằng sống là đấng ban sự yêu thương rời rộng cho mọi người, anh ta đã được đưa vào một thế giới mới - và một cuộc đời thật đáng sống.

Tại Addis Ababa, một thiếu phụ sắp sữa bỏ nhà trốn đi và tự sát với đứa con hoang, nhưng khi nghe về Cứu Chúa Giê-xu, về tình yêu vô điều kiện của Ngài, chị đã được chinh phục bởi sứ điệp hy vọng và hạnh phúc này, và tìm ra một lối thoát cho cuộc đời. Đấng Christ đã cứu sống chị và đứa trẻ thơ vô tội.

Một tu sĩ Ần-độ giáo tại Suva, Fiji Island, bị ám ảnh bởicảm giác rằng mình bị hư mất và đoán phạt dầu đã hết sức cố gắng thực hành mọi lễ nghi tôn giáo. Lòng ông tràn ngập xúc động khi biết rằng chỉ đức tin trong Đức Chúa Giê-xu, chứ không phải bởi công đức mà có thể bước vào sự hiện diện của Thiên Chúa. Sau khi giao phó mình trong trong tình yêu của Chúa Giê-xu tối hôm đó, ông đã nói với tôi : " Kỳ diệu làm sao! Đây chính là điều tôi đã tìm kiếm suốt đời mình !."

Chúng ta có thể làm gì để giúp người khác thoát khỏi tình trạng hiểm nguy đó? Phải chăng đạo đức, những khám phá mới mẽ của khoa học, văn hóa hay chính trị có thể cứu họ? Nhân loại đang phải đối diện với nhiều nan đề. Chỉ Đấng Christ mới có thể mang lại sự giải thoát. Chỉ có Ngài mới đập tan gông cùm của tội lổi và sầu thảm.

2000 năm đã trôi qua kể từ đêm định mệnh mà Phi-lát ra lịnh tử hình Chúa chúng ta, kẻ thù tưởng rằng thế là kết liểu đời Ngài, nhưng đó mới thực sự bắt đầu! Từ đó, Ngài diển hành cách khải hoàn qua bao thế kỷ, chinh phục thời gian và không gian bằng thứ vũ khí duy nhất của Ngài - Tình Yêu.

Ngài đang đứng trước mặt bạn hôm nay, chính Giê-xu này ban cho Bạn tất cả. Và khi Bạn đối diện với Ngài, Bạn cũng đối diện với câu hỏi Ngài từng đặt ra với các môn đệ: " Các ngươi nghĩ gì về Đấng Christ ? ". Vận mệnh đời đời của Bạn tùy thuộc vào câu trả lời của Bạn đấy !"




Tiến Sĩ G. D. James Từng trải một kinh nghiệm hào hứng khi gặp Chúa Cứu Thế Giê-xu vào năm 1937, lúc còn là tín đồ Hồi Giáo, cuộc đời Tiến Sĩ James được cách mạng hóa. Mặc dù lúc đầu bị gia đình chống đối và bắt bớ, ông đã hướng dẫn 30 người bà con trở lại với Chúa Giê-xu trong vòng sáu tháng. Năm 1940, Tiến Sĩ James tự túc lăn xả vào công tác chứng đạo và truyền giáo toàn thời gian. Sau khi học xong ở Ần Độ và Mã Lai, ông tiếp tục học lên bằng hàm thụ ở Đại học Cambridge (Anh) và tốt nghiệp bằng Ký giả ở Luân Đôn. Sau đó ông đậu bằng Tiến Sĩ Thần Khoa (Doctor of Theology) và được tuyên dương với bằng Doctor of Devinity (D.D.) ở Thần học viện Maranatha, Florida, Mỹ.

Tiến Sĩ James đã viết 23 quyễn sách và là một nhà truyền giáo nổi tiếng thế giới. Ông thành lập Hội Thông Công Tin Lành Á Châu năm 1960 để truyền bá Tin Lành ở Ần Độ, Nepal, Miến điện, Nam Dương, Tân-gia-ba, Phi luật Tân và Việt Nam. Hiện nay con số các nhà truyền giáo quốc gia được hội yểm trợ lên trên 120 người.

Hơn 5 triệu quyễn sách nhỏ "Một Người Mà Bạn Phải Đối Diện" đã được xuất bản trong ít nhất 10 thứ tiếng.

Tiến Sĩ James đã từng là Chủ tịch Hội Fellowship of South Asian Christian (FOSAC) International và World Literature Crusade (Aust.).

Ông được nhắc đến trong các sách Danh Nhân như "Who is Who in Malaysia and Singapore" (1973-74), "Dictionary of International Biography, England" (1978), "People of Achievement" U.K., (1980) và "Who is Who of the Intellectuals" U.K. (1980) Một Người Mà Bạn Phải Đối Diện

Tiến sĩ G.D. James, Th.D., D.D.
Người dịch : Thảo Vinh và Trang Ấn

(sưu tầm từ www.mucsu.net, www.tinlanh.org.au)



© 1999-2017 Tinlanh.Ru